Một ví dụ minh chứng cho điều này là câu hỏi của các triết gia cổ đại về sự khác nhau giữa vật thể trên mặt đất và vật thể trên bầu trời. Đây chính là những từ hàm chứa các phân tích, lý luận của tác giả. Kinh nghiệm đặc biệt chỉ có ở những người chấp nhận khó khăn để khám phá ra nó.
Sinh viên hay độc giả đọc triết học cổ nên phân biệt những ưu điểm và nhược điểm của từng loại. Thứ hai, bạn phải xác định được có thể tìm những điều mình muốn biết ở đâu. So sánh với việc viết và đọc, ta sẽ thấy nội dung viết và đọc cũng giống như quả bóng là thứ bị động chung cho cả hai hoạt động bắt đầu và kết thúc một quá trình nào đó.
Do đó, độc giả không chỉ nêu ý kiến phản đối hoặc tán thành mà còn phải bảo vệ ý kiến của mình bằng những lý do phù hợp. Họ nói rằng hoàn toàn sai lầm khi áp đặt một hệ thống thuật ngữ dù là trung tính lên một tác giả. Bên cạnh những báo cáo, những con số liên quan đến toán học và thống kê - phần nặng về lý thuyết hơn thực hành - thì những cuốn sách này thường dạy ta cách tổ chức đời sống kinh tế ở nhiều quy mô từ cá nhân đến tập thể hay quốc gia; chỉ cho chúng ta nên hay không nên làm gì và thông tin về những hậu quả tương ứng nếu ta không làm những việc phải làm.
Hãy chụm ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa lại với nhau, rồi lướt con trỏ này trên một dòng nhanh hơn một chút so với tốc độ bình thường của mắt. Cố gắng định nghĩa từ này là một vấn đề gây nhức đầu và bạn phải tìm hiểu sâu về triết học để hiểu được vấn đề. Nhưng tất cả chúng ta đều có thể học cách đọc hiệu quả hơn, để hiểu biết hơn bằng chính nỗ lực của bản thân.
Cũng như vậy, các tiêu chuẩn đạo đức thuyết phục người đọc tin vào sự tồn tại của một cuộc sống tốt đẹp và đưa ra các cách để có được cuộc sống đó. Thucydides đã nói rằng ông ta viết câu chuyện lịch sử đó để con người tương lai không mắc lại lỗi lầm mà con người ở thời ông mắc phải, cũng như để nhân loại không phải gánh chịu những hậu quả mà cá nhân ông đã phải chịu đựng cùng sự đau đớn của đất nước quê hương ông. Vì thế, cách chúng ta kiểm tra giả thiết này không giống như kiểm tra giả thiết trong toán học.
Theo định nghĩa, đó là những tác phẩm được viết cho số đông độc giả, không phải cho các nhà chuyên môn. hãy bắt mình theo kịp tốc độ của bàn tay. Chính vì thế, nhiều nhà nghiên cứu đã cho ra đời các công trình nghiên cứu về phương pháp dạy đọc với nhiều cách thức tiếp cận mới.
Nếu bạn biết các loại câu hỏi mà ai cũng có thể hỏi về bất cứ điều gì thì bạn sẽ rất tinh thông khi tìm vấn đề của tác giả. Đó là ghi chú về hình thức thảo luận - cuộc thảo luận mà tất cả các tác giả cùng tham gia cho dù có nhiều người không biết nhau. Họ đưa vào đầu mình một chính kiến giống như đưa một băng cassette vào trong máy cassette.
Không giống sách hướng dẫn, sách triết học quy phạm dùng các từ phổ biến mô tả phương thức nên sử dụng để đạt các mục tiêu này. Đó cũng là cách sắp xếp dễ nhất và nhờ nó mà công việc biên soạn bách khoa toàn thư đã đạt được rất nhiều bước tiến lớn. Ví dụ, các em học sinh lớp một nhìn thấy một tập hợp các dấu hiệu màu đen trên nền giấy trắng, các dấu hiệu đó có nghĩa là Con mèo ngồi trên chiếc mũ.
Nhiều độc giả dùng ký hiệu Cf để chỉ số của các trang khác có nghĩa là so sánh với hay đề cập tới. Độc giả đọc sách theo tinh thần này chỉ đọc cốt để tìm ra những điểm mình không tán thành. Vế thứ hai bắt đầu bằng từ vì và tách ra thành một câu khác.
Sau đó chú ý đến các vị trí của từ xem nó được dùng với nghĩa nào, và dựa vào ngữ cảnh để tìm ra nguyên nhân của sự chuyển đổi sắc thái ý nghĩa. Trong phần này, chúng tôi phân tích những thay đổi đối với bốn câu hỏi cần phải đặt ra khi đọc bất cứ cuốn sách thực hành nào. Một ví dụ khác là Shaw, người không những muốn kịch của mình được dựng trên sân khấu mà còn mong mọi người đọc chúng.