Ngôn ngữ không phải là một phương tiện truyền tải tri thức hoàn hảo nên đôi khi nó cản trở hoạt động giao tiếp. Việc đọc sách cũng tương tự. Muốn học từ sách giả tưởng, chúng ta phải tự suy nghĩ về những bài học đó; còn để học được từ nhà khoa học và triết gia, trước hết bạn phải hiểu những gì họ nghĩ.
Nó liên quan tới cấu trúc của tác phẩm bởi nó xét tới việc tác giả nêu các vấn đề hoàn chỉnh hay không có liên quan tới mức độ làm sáng tỏ vấn đề bởi nó xác định được mức độ thoả đáng mà tác giả giải quyết những vấn đề đó. Có hai khả năng xảy ra: hoặc tác giả sử dụng các từ này theo một nghĩa duy nhất, hoặc theo hai hay nhiều nghĩa khác nhau và liên tục chuyển đổi sắc thái ý nghĩa của từ. Lịch sử nói về hành động của con người trong quá khứ.
Một điều cần đặc biệt lưu ý nữa là nếu bạn cho rằng mỗi lần tác giả thay đổi cách dùng từ là một lần tác giả chuyển sang một thuật ngữ mới thì bạn đã nhầm. Cho đến năm 1930 và vài năm sau đó, sách triết học vẫn được viết cho độc giả bình thường. Vì thế, ngay cả khi bạn là một người luôn bận rộn và hay gặp vướng mắc với việc đọc sách, hãy thử tìm lời giải trong Đọc sách như một nghệ thuật, biết đâu bạn sẽ thay đổi quan điểm của mình.
Giai đoạn đầu của đọc sơ cấp - sẵn sàng đọc tương ứng với việc theo học ở các trường dự bị và mẫu giáo. Nếu có, độc giả sẽ ít nhiều hành động theo cách mà sách đã nêu. Nhưng để biết được sự thật, chúng ta lại phải xem xét câu chuyện đó từ nhiều góc nhìn khác nhau.
Những thói quen này vừa gây lãnh phí thời gian, vừa làm giảm tốc độ đọc. Các tác phẩm của Hyppocrates ông tổ ngành y học Hy Lạp không phải là tác phẩm toán học. Như Sorattes nói: Nhà triết học không suy nghĩ đơn độc mà phải đối diện với các đối thủ trên một thị trường trí tuệ.
Tác phẩm Thần học Summa được chia làm nhiều phần, nhiều bài luận, các câu hỏi và các bài viết. Hai điểm phê phán đầu tiên này có liên quan đến nhau. Có thể là do cấu trúc sách lộn xộn, các phần trong sách không được liên kết với nhau, một số phần không hợp lý, hoặc tác giả đã phóng đại quá nhiều khi sử dụng những từ ngữ thậm xưng, gây ra hàng loạt tình tiết khó hiểu.
Khi bạn thấy các từ được liệt kê có vẻ quan trọng, hãy tìm ít nhất vài đoạn đã được trích dẫn (chúng tôi sẽ nói kỹ thêm về các từ quan trọng trong Phần hai. Einstein (Vũ trụ và Tiến sĩ Einstein) của Lincoln Barnett và The Closing Circle (Vòng tròn khép kín) của Barry Commoner. Một ví dụ khác là Shaw, người không những muốn kịch của mình được dựng trên sân khấu mà còn mong mọi người đọc chúng.
Diễn đạt nội dung chính của toàn bộ cuốn sách một cách ngắn gọn nhất. Nó có thể được diễn tả bằng lời hoặc được thể hiện bằng những hành động cụ thể, ít nhiều có âm điệu hay cảm xúc. Mặc dù cuốn sách thực hành nào cũng mang tính khích lệ, cổ vũ nhưng những yếu tố này không được đặt ngang hàng với yếu tố thực hành.
Tiêu biểu là cách thể hiện của nhà toán học Euclid. Thói quen này chính là biểu hiện của một độc giả yêu cầu cao. Việc đưa ra nhận xét này sẽ là vô nghĩa trừ phi người đọc xác định được chính xác mức độ chưa hoàn chỉnh của tác giả bằng sự nỗ lực của bản thân độc giả hoặc từ những thông tin của các cuốn sách khác.
Nếu lời giới thiệu chỉ là lời khoe khoang về cuốn sách thì bạn chỉ cần liếc qua cũng nhận thấy. Nếu bạn không đặt vở kịch lên sân khấu, có thể bạn đã không thật sự đọc nó theo cách thấu đáo nhất, mà chỉ đọc được một phần của nó thôi. Một mặt, một từ có liên quan đến nhiều thuật ngữ khác nhau.