Học sinh nữ đầy đặn tuổi 20 tò mò về chuyện tình dục
Trong những quy luật lớn thường xuyên chỉ đạo sự tiến triển chung của mỗi nền văn minh, “những quy luật phổ biến nhất, khó quy giản nhất được sinh ra từ cấu tạo tinh thần của những chủng tộc” (Quy luật tâm lý về sự tiến hoá của các dân tộc). Đồng thời nó cũng nói lên một điều là những nhân chứng như vậy rất ít có giá trị trước tòa. Nhưng những ông chủ vô hình thống trị tâm hồn chúng ta, đều thoát khỏi mọi sự tấn công và chỉ bị suy yếu bởi sự hao mòn từ từ kéo dài hàng thế kỷ.
Tuy nhiên sau đó nhất thiết phải làm công tác chuẩn bị cho đám đông về những tình cảnh nhất định nào đó và đặc biệt là kẻ muốn lôi kéo họ phải có một tính cách mà lát sau tôi sẽ gọi là sự ảnh hưởng để phân tích. Giảm giờ làm, tịch thu hầm mỏ, đường sắt, xí nghiệp và ruộng đất, chia đều thành quả lao động, tiêu diệt các tầng lớp trên vì quyền lợi của tầng lớp nhân dân v. Bỗng nhiên quyền lực mù quáng của đám đông trong giây lát đã trở thành cái triết lý duy nhất của lịch sử.
Không có gì có thể làm cho người nghe sợ hãi. Chỉ bằng cách lặp đi lặp lại, câu này cuối cùng đã trở thành một trong những câu không gì lay chuyển nổi của nền dân chủ. Như thế các quan điểm nền tảng và các ý niệm của đám đông sẽ tạo nên hai nhóm tách biệt nhau rất rõ ràng.
Những diễn biến từ ba mươi năm trở lại đây thật đáng ngạc nhiên. Là nạn nhân của sự sai lầm, rằng càng nhiều điều luật thì tự do và bình đẳng càng được đảm bảo tốt hơn, đã dẫn tới các dân tộc chỉ càng tự trói chặt mình hơn khi làm điều đó. Điều xảy ra sau đó là những con người, bị tách rời khỏi nhau do bởi các lối sống và đòi hỏi của họ, sẽ trở nên không còn tự chủ và họ đòi phải được chỉ dẫn ngay cả trong những hành động không có ý nghĩa nhất, và rằng nhà nước phải mở rộng ảnh hưởng của nó trên mọi lĩnh vực.
Ngoại trừ một số ít những người ăn mày chuyên nghiệp thì số còn lại trong họ bao gồm các nhà buôn và các thợ thủ công thuộc đủ các ngành nghề, như thợ giày, thợ nguội, thợ làm tóc giả, thợ nề, viên chức, quân nhân v. Sự tụ họp chỉ vài ba người riêng rẽ cũng tạo nên đám đông; ngay cả những nhà thông thái, tất cả đều có những đặc tính đám đông đối với những sự việc nằm ngoài lĩnh vực chuyên môn của họ. Nó không còn có ý thức về những hành động của nó.
Chúng ta thấy trong khoảng thời gian này, đám đông khi đầu theo chủ nghĩa quân chủ, sau đó là cách mạng, rồi theo chủ nghĩa đế quốc và cuối cùng lại quay trở lại với chủ nghĩa quân chủ. Nếu chính quyền bị lung lay, khi đó đám đông, với đặc tính luôn tuân theo những tình cảm cực đoan nhất, cũng sẽ liên tục chao đảo từ thái cực vô chính phủ sang nô lệ và từ nô lệ sang vô chính phủ. Một công chức tòa án cấp cao, ông Adolphe Guillot, đã tường trình, rằng hiện nay ước tính có khoảng ba ngàn tội phạm có học trên một ngàn tội phạm không có học, và trong khoảng thời gian năm mươi năm qua số tội phạm đã tăng từ 227 lên đến 552 trên tổng số một nghìn dân, có nghĩa là chúng đã tăng khoảng 133%.
Hàng nghìn người tình cờ xuất hiện trên một quảng trường không có một mục đích nhất định sẽ không bao giờ tạo nên được một đám đông theo nghĩa tâm lý học. Về mặt ý tưởng, đám đông cũng luôn lạc hậu hơn nhiều thế hệ so với những nhà khoa học và triết học. Vậy những đặc tính riêng mới này hình thành như thế nào? Tới đây chúng ta sẽ nghiên cứu nó.
Người ta không được phép đòi hỏi ở nó những gì nhiều hơn là những sự gợi ý. Thường chúng ta hay bị ngạc nhiên khi đọc những bài viết về những điểm yếu trong một bài phát biểu nào đó, thế mà nó lại có tác động mạnh mẽ đến người nghe; nhưng ta quên mất rằng, bài phát biểu đó được làm ra để lôi kéo đám đông, chứ không phải để cho những triết gia đọc. Những lãnh đạo lớn của đám đông như Buddha, Jesus, Mohammed, Jeanne d'Arc, Napoleon đều có một ảnh hưởng kiểu như vậy ở tầm vóc cao và đặc biệt qua đó họ đã tạo nên cho mình một uy tín lớn.
Tính phiến diện và thái quá của tình cảm đám đông đã bảo vệ nó tránh khỏi nghi ngờ và lưỡng lự. Sự liên kết tạo điều kiện cho đám đông xây dựng nên những ý tưởng xuất phát từ những quyền lợi của nó, tuy rằng chúng có thể chưa đúng hẳn nhưng ít nhất cũng hoàn toàn có căn cứ và tạo điều kiện cho họ ý thức được sức mạnh của mình. Nó cũng có thể bị hao mòn, do việc người ta bàn luận về nó; điều này xảy ra chậm hơn, nhưng chắc chắn.
Và Voltaire trong mối liên quan đến thiên chúa giáo cũng đã nhận định, “hơn một trăm năm chỉ toàn một lũ du thử du thực bám theo nó”. Từ dã man mọi rợ được ước mơ hoài bão dẫn dắt đã trở thành một nền văn hóa, sau đó, chừng nào niềm mơ ước này không còn sức lực, cũng là giây phút của sự suy tàn và cái chết - cuộc sống của các dân tộc luôn chuyển động trong cái vòng luân hồi như vậy. Khoảng cuối thế kỷ 18, do có hiện tượng đập phá các nhà thờ, săn đuổi và chặt đầu giáo sĩ, đàn áp các biểu tượng công giáo nói chung, người ta đã tin rằng như vậy những ý tưởng tôn giáo cũ đã bị tước bỏ hết quyền lực; thế nhưng chỉ vài năm sau, dưới áp lực của đòi hỏi chung, các biểu tượng tôn giáo bị xóa bỏ trước đây đã được khôi phục trở lại[8].